THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
* CÁC MỤC TỬ THỜ LẠY CHÚA GIÁNG SINH; * CHÚA HÀI ĐỒNG CHỊU PHÉP CẮT BÌ Sau khi triều thần thiên đàng đã mừng Thiên Chúa làm người giáng sinh tại hang đá gần cổng thành Bethlehem, một số thiên thần được phái đi các nơi đem tin vui mừng cho những người, theo thánh ý Chúa, xứng đáng nhận tin vui đó. Tổng lãnh thiên thần Micae đến báo cho các thánh Tổ ở lâm bô biết Con Một Thiên Chúa Cha hằng hữu đã sinh ra trong thế gian và đang nằm nghỉ khiêm tốn hiền lành trong máng cỏ giữa hai con vật như các thánh đã tiên tri. Theo lời Đức Hiền Mẫu Maria, tổng lãnh thiên thần Micae nhân danh Mẹ đặc biệt thông báo tin mừng cho hai thánh ngoại tổ Joakim và Anna. Tổng lãnh thiên thần Micae chúc mừng hai thánh tổ rằng Ái Nữ của các ngài lúc này đang bồng ẵm Đấng muôn dân trông đợi và đã được các thánh Tiên Tri loan báo (Is.7:14,9:7,v.v.). Đây là ngày hết sức hân hoan vui mừng, ngày toàn thể các người công chính và các thánh được hưởng trong suốt cuộc lưu đầy lâu đời. Một trong các thiên thần được Mẹ Maria gởi tới báo tin cho bà Elisabeth và hài nhi Gioan (Tẩy Giả). Khi được tin Chúa Cứu Thế giáng sinh, bà Elisabeth và hài nhi Gioan, mặc dầu hài nhi Gioan lúc này mới được sáu tháng tuổi đời, đã phủ phục thờ lạy Thiên Chúa làm người trong tinh thần và chân lý (Gioan. 4:23). Hài nhi Gioan đã được hiến dâng làm Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế, được canh tân trong lòng một tinh thần nồng cháy hơn tinh thần sốt sắng của tiên tri Elias. Bà Elisabeth xin Mẹ Maria nhân danh hai mẹ con bà thờ lạy Chúa Hài Đồng. Trong số những người được đặc biệt chúc phúc là các mục tử ở miền lân cận thức đêm canh giữ bầy chiên khi Chúa Cứu Thế giáng sinh (Lc 2:8). Những người này được chúc phúc vì họ chấp nhận thân phận vất vả khổ cực vâng theo thánh ý Thiên Chúa, sống nghèo nàn khiêm nhượng, bị người đời khinh chê. Các mục tử này thuộc hàng ngũ những người Do Thái có lòng chân thành ngay thẳng, hằng tha thiết hy vọng trông chờ Chúa Cứu Thế đến. Những người này đã nên giống như Đấng tạo thành sự sống vì được làm cho xa cách của cải phù vân hào nhoáng trần gian, tránh xa mưu mô ác độc của nó (Gioan 10:14). Trong mọi hoàn cảnh, các mục tử cho thấy họ sẵn sàng thi hành nhiệm vụ, mà Mục Tử Tốt Lành tới để hoàn thành việc biết các chiên của Ngài và chúng biết Ngài. Vì thế họ xứng đáng được Chúa Cứu Thế mời gọi như hoa trái đầu mùa trong số các thánh, là những người đầu tiên Ngôi Lời Hằng Hữu Nhập Thể tỏ mình cho và muốn được những người này chúc tụng, phụng thờ. Tổng lãnh thiên thần Gabriel được phái đến với các mục tử đang canh giữ đàn chiên. Các mục tử ngỡ ngàng sợ hãi khi bất thình lình được bao phủ trong hào quang thiên đàng từ thiên thần Gabriel tỏa ra. Tổng lãnh thiên thần trấn an họ: “Hỡi những người ngay lành, đừng sợ, tôi báo cho các người tin vui mừng vĩ đại: hôm nay Đức Kitô Chúa Cứu Thế đã giáng sinh cho các người trong thành David. Để làm dấu chỉ sự thực này, tôi cho các người biết: các người sẽ thấy một Hài Nhi bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ” (Lc 2:10,12). Khi tổng lãnh thiên thần Gabriel dứt lời, muôn vàn thiên thần hiện ra, du dương hát ca chúc tụng Đấng Tối Cao: “Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Hát xong lời quá sức lạ lùng đối với trần gian này, các thiên thần biến đi. Tất cả các việc này xảy ra lúc canh tư đêm đó. Nhờ nhìn thấy các thiên thần, các mục tử khiêm tốn nhưng tốt phúc được ơn soi sáng đã khao khát chứng kiến tường tận mầu nhiệm cao cả vô cùng vừa mới được cho biết. Trao đổi với nhau những ý nghĩ đầy hứng khởi do lời Thiên Sứ, các mục tử quyết định lập tức đi Bethlehem chứng kiến điều kỳ lạ được thiên thần báo tin. Vào trong hang đá, các mục tử thấy Đức Maria, thánh Giuse, và Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ. Nhìn thấy cảnh này, họ nhận biết sự thực những lời đã được nghe về Chúa Hài Đồng. Khi các mục tử nhìn Chúa, Chúa cũng nhìn họ, toả ra từ gương mặt Chúa hào quang vĩ đại làm cho trái tim chân thành của những người nghèo khó nhưng hạnh phúc này tan biến trong yêu thương. Ơn Chúa đã thay đổi, canh tân những người này, tạo dựng trong họ tinh thần ân sủng thánh thiện mới, ban cho họ sự hiểu biết đáng tôn vinh về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Các mục tử phủ phục thờ lạy Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Không còn dốt nát quê mùa, nhưng là những người khôn ngoan, họ thờ lạy, nhận biết, tôn vinh Chúa là Thiên Chúa thực và người thực, Đấng khôi phục và cứu chuộc loài người. Đức Nữ Vương thiên đàng, Thánh Mẫu của Chúa Hài Đồng, ghi nhận tất cả mọi việc các mục tử làm trong lòng và bề ngoài; vì Mẹ nhìn rõ tận đáy trái tim họ. Bằng sự khôn ngoan cẩn thận cao cả nhất, Đức Maria ghi nhớ trong lòng mọi việc xảy ra, suy gẫm (Lc 2:19), đối chiếu các mầu nhiệm tích chứa trong những việc đó với các lời tiên tri và Sách Thánh. Là thừa tác của Chúa Thánh Thần và đại diện Chúa Hài Đồng, Mẹ Maria nói với các mục tử, chỉ dẫn, khuyến khích họ kiên trì yêu mến phụng sự Đấng Tối Cao. Các mục tử cũng nói với Mẹ về phần họ; những lời đối đáp cho thấy họ hiểu nhiều điều về các mầu nhiệm này. Các mục tử ở lại hang đá từ rạng đông cho tới trưa mới ra về, được đầy thánh sủng và an ủi từ thiên đàng. Khi lần đầu tiên đặt Chúa Hài Đồng trong tay thánh Giuse, Đức Mẹ nói: “Thưa phu quân và người giúp đỡ thiếp, trong vòng tay người xin hãy nhận lấy Đấng tạo thành trời đất, hãy vui hưởng sự đồng bạn hiền hoà dịu dàng của Chúa, để Chúa và Thiên Chúa của thiếp được hoan hỉ và đền đáp những phụng sự trung tín của phu quân (Cn 8:31). Xin phu quân hãy giữ lấy cho mình Kho Tàng của Thiên Chúa Cha hằng hữu, thông phần trong đại hồng ân này dành cho nhân loại.” Mẹ nói thầm với Chúa Hài Đồng: “Tình yêu vô cùng ngọt ngào của linh hồn mẹ và ánh sáng mắt mẹ, Con hãy nằm nghỉ trong tay Giuse, bạn và phu quân của mẹ. Mẹ xin Con hiệp thông ngọt ngào với ngài, mẹ xin Con tha thứ cho sự thiếu sót của mẹ. Mẹ cảm thấy mất mát rất nhiều cho dù chỉ trong chốc lát, nhưng mẹ ước ao truyền thông không chút ganh tị những ơn lành Mẹ được cho tất cả những ai xứng đáng” (Kn 7:13). Thánh Giuse hạnh phúc ý thức hồng ân mới này, hạ mình tới đất, đáp lời: “Thưa Đức Nữ Vương thế giới, hiền thê của tôi, tôi là kẻ bất xứng, có thể nào dám bồng ẵm chính Thiên Chúa, mà trước mắt Ngài mọi cột trời run rẩy dao động? (Giób 26:11). Làm sao con trùng hèn hạ này có cam đảm dám nhận đặc ân cao cả như thế? Tôi bất quá chỉ là tro bụi, nhưng thưa Đức Nữ Vương, xin Người giúp đỡ trong sự hèn hạ của tôi và xin Chúa nhân từ đoái nhìn và làm cho tôi nên xứng đáng nhờ hồng ân của Người.” Khao khát được ẵm Chúa Hài Đồng và lòng kính sợ Chúa gây ra trong thánh Giuse các hành động yêu mến, tín trung, khiêm nhượng, anh hùng, kính trọng thẳm sâu nhất. Run rẩy với lòng kính úy sâu xa và trong hoan lệ, thánh Giuse quì gối đón Chúa Hài Đồng từ tay Đức Hiền Mẫu Maria. Chúa Hài Đồng trìu mến nhìn thánh Giuse đồng thời canh tân linh hồn ngài bằng những hồng ân hết sức cao cả. Thánh Giuse dâng lên những lời chúc tụng mới khi thấy mình được ban cho hạnh phúc vĩ đại như thế. Sau khi thánh Giuse đã sung sướng ẵm Chúa Hài Đồng, Đấng chứa đựng cả trời đất (Is. 40:12) một lúc, ngài đặt Chúa trở lại vòng tay Hiền Mẫu hạnh phúc Maria. Đức Hiền Mẫu và thánh dưỡng phụ quì khi nhận và trao Chúa cho nhau. Mỗi khi tới phiên được hạnh phúc bồng ẵm Chúa, thánh Giuse bắt chước lòng cung kính mà Mẹ Maria thực hành mỗi khi ẵm Chúa Hài Đồng lên hoặc đặt Chúa nằm xuống. Từ giây phút được chọn làm Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ luôn suy gẫm những vất vả khổ cực dành sẵn cho Con cực châu báu. Vì thấu triệt Sách Thánh, Mẹ Maria hiểu mọi mầu nhiệm về Ơn Cứu Chuộc và cuộc sống trần gian của Chúa Cứu Thế. Mẹ thấy trước và chuẩn bị cho những gì Con cực thánh sẽ phải chịu để cứu chuộc nhân loại. Sự đau khổ thấy trước mọi chi tiết cặn kẽ là cuộc tử đạo triền miên đối với Đức Từ Mẫu hiền lành nhất của Chiên Thiên Chúa hy sinh (Jer 11:19). Đức Maria không nhận được lệnh truyền hoặc chỉ dạy về thánh ý Thiên Chúa Cha đối với Nghi Lễ Cắt Bì, nghi lễ này phải được thi hành tám ngày sau khi Chúa Hài Đồng giáng sinh. Mẹ Maria nghĩ rằng Con cực thánh Mẹ đến trần gian để tôn vinh và xác nhận Lề Luật Chúa bằng việc chu toàn Lề Luật; hơn nữa Chúa đến để chịu đau khổ vì nhân loại, hẳn lòng yêu thương bừng bừng và những lý do khác thúc đẩy Chúa chịu các đau đớn do nghi lễ này. Tình mẫu tử và lòng trắc ẩn của Mẹ Maria hẳn ước mong chước giảm cho Chúa Hài Đồng khỏi phải chịu sự đau đớn cắt bì. Mẹ biết nghi lễ cắt bì được thiết lập để thanh tẩy các trẻ sơ sinh khỏi tội nguyên tổ; trái lại Chúa Hài Đồng hoàn toàn không vương tội này. Lưỡng lự giữa tình yêu Con cực thánh và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha, Đức Trinh Mẫu cực khôn ngoan đã thi hành nhiều hành động nhân đức anh hùng, làm hài lòng Thiên Chúa. Mặc dầu Mẹ Maria có thể thoát khỏi sự phân vân này bằng cách xin Chúa cho biết phải làm gì; nhưng vì khiêm nhượng và khôn ngoan, Mẹ dằn lòng; Mẹ cũng không hỏi các thiên thần. Mẹ chờ thời gian thuận tiện và cơ hội do Chúa Quan Phòng mọi sự; Mẹ không dám tò mò tìm hiểu quyết định của Thiên Chúa bằng cách tham khảo các nguồn tin siêu nhiên, dù đặc biệt là để tránh khỏi bất cứ sự đau buồn nào. Khi cần phải biết thánh ý Chúa về một vấn đề nghiêm trọng hoặc điều hoài nghi, mà trong đó có sự nguy hiểm xúc phạm đến Thiên Chúa, hoặc điều hiểu biết cấp thiết vì ích lợi cho mọi người, trước tiên Mẹ Maria xin được phép dâng lên lời cầu khẩn xin ơn soi sáng làm đẹp lòng Chúa. Sau khi cầu nguyện, Mẹ Maria yêu cầu thánh Giuse xúc tiến mọi thứ cần thiết cho nghi lễ cắt bì Chúa Hài Đồng. Mẹ nói thời gian theo luật cắt bì cho Chúa Hài Đồng đã tới và vì không nhận được lệnh nào trái lại, thì chắc là cần phải thi hành đúng luật đó. Mẹ Maria nói chính Mẹ và thánh Giuse có nhiệm vụ phải làm vui lòng Thiên Chúa hơn hết mọi người, mau mắn vâng theo thánh ý, nhiệt thành trong tình yêu mến săn sóc Con cực thánh của Thiên Chúa Cha hơn mọi thụ tạo khác, đền đáp những hồng ân khôn sánh và chu toàn mọi điều làm vui lòng Chúa. Thánh Giuse đáp lời Mẹ Maria: “Vì không có lệnh nào trái lại được ban cho chúng ta về Chúa Hài Đồng, Chúa muốn giữ mọi điều đúng như trong luật chung. Là Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể không lệ thuộc lề luật, nhưng lúc này Chúa mặc lấy bản tính loài người, vì là Thầy cực trọn lành và là Chúa Cứu Thế, rõ ràng Chúa muốn giữ đúng luật đó như mọi người khác.” Kế đó thánh Giuse hỏi Mẹ Maria về cách tiến hành Nghi Lễ Cắt Bì. Mẹ Maria nói với thánh Giuse rằng nghi lễ cắt bì sẽ được thi hành cách đích thực cùng một thể thức như cho các trẻ sơ sinh khác, nhưng Mẹ không trao hoặc ủy thác cho bất cứ người nào khác mà chính Mẹ sẽ ẵm Chúa Hài Đồng. Vì sự yếu ớt non ngày của Chúa Hài Đồng hẳn nghi lễ này làm cho Chúa đau đớn, nên cần có sẵn thuốc chống đau, thứ thuốc vẫn được dùng vào dịp nghi lễ cắt bì. Mẹ Maria cũng xin thánh Giuse chuẩn bị sẵn bình để trữ các thánh tích trong nghi lễ cắt bì Chúa Hài Đồng. Đức Hiền Mẫu cẩn thận chuẩn bị một ít khăn vải để thấm máu thánh, dịp này đổ ra lần đầu tiên vì nhân loại, để không một giọt máu thánh nào bị mất đi hoặc rơi xuống đất. Sau các chuẩn bị, Mẹ Maria xin thánh Giuse thông báo cho vị tư tế, yêu cầu ngài tới cử hành nghi lễ ngay tại hang đá, mà không cần phải đưa Chúa Hài Đồng đi nơi khác. Đức Hiền Mẫu Maria và thánh Giuse trao đổi về thánh danh đặt cho Chúa Hài Đồng trong Nghi Lễ Cắt Bì. Thánh phu quân nói: “Thưa bà chủ, khi thiên thần Đấng Tối Cao cho tôi biết mầu nhiệm vĩ đại này, ngài cũng cho tôi biết Con cực thánh của hiền thê phải được đặt tên là GIÊSU” (Mt 1: 18-21) Đức Trinh Mẫu Maria đáp: “Cũng thánh danh này được tiết lộ cho thiếp khi Ngôi Lời mặc thân xác trong dạ thiếp. Vì thế chúng ta nhận được thánh danh này từ nơi Đấng Tối Cao qua miệng các thiên thần, các thừa tác của Chúa. Thật là chính đáng, chúng ta với lòng khiêm nhượng tôn kính thi hành đúng những phân định huyền nhiệm khôn ngoan vô cùng của Chúa, vì thế chúng ta đặt Tên cho Con Trẻ là GIÊSU. Chúng ta sẽ đưa thánh danh này cho vị tư tế ghi vào sổ các trẻ được cắt bì” (Lc 1:31). Trong khi Mẹ Maria và thánh Giuse trao đổi những lời này, muôn vàn thiên thần mang hình người ta từ thiên đàng đến hang đá Bethlehem. Các thiên thần cầm lá thiên tuế, đội triều thiên tỏa ánh sáng chói chang, có huy hiệu thánh danh GIÊSU trước ngực. Các ngài chia làm hai ca đoàn ở trong hang đá, mắt không rời Vua và Chúa của mình trên cánh tay Đức Trinh Mẫu Maria. Thủ lãnh các đạo binh thiên quốc là hai tổng lãnh thiên thần Micae và Gabriel, rực rỡ hơn tất cả, mang nơi tay các ngài huy hiệu đặc biệt: tên cực thánh Chúa GIÊSU, viết bằng đại tự vô cùng rực rỡ. Hai tổng lãnh thiên thần đến trình diện Đức Hiền Mẫu: “Thưa Nữ Vương, đây là thánh danh Con của Người (Mt. 1:21). Thánh danh này đã được viết trong trí Thiên Chúa từ thuở đời đời, Thiên Chúa ban cho Con Một của Nữ Vương và là Chúa của chúng thần để là dấu báo Ơn Cứu Độ cho toàn thể nhân loại; đồng thời đặt Con của Nữ Vương trên ngai tòa David. Ngài sẽ thống trị, chiến thắng và trừng phạt các kẻ thù, làm cho chúng trở thành bệ dưới chân và Ngài sẽ phán xét chúng. Chúa sẽ nâng các bạn hữu của Ngài lên vinh quang. Tuy nhiên mọi việc này phải thực hiện bằng giá khổ đau và máu. Ngay từ bây giờ Ngài phải đổ máu ra khi nhận thánh danh, thánh danh Đấng Cứu Thế. Việc đổ máu này sẽ là khởi đầu những đau khổ Chúa Cứu Thế phải chịu vì vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha hằng hữu. Tất cả chúng thần, được tạo dựng để yêu mến tôn thờ và phụng sự Đấng Tối Cao, được Thiên Chúa chỉ định phái đi phụng sự Con Một Thiên Chúa Cha và của Nữ Vương trong mọi mầu nhiệm bí tích thuộc Luật Ân Sủng. Chúng thần theo hầu hạ Chúa Cứu Thế cho tới khi Ngài vinh hiển ngự lên thành Jerusalem trên trời và mở các cửa thiên đàng.” Vị tư tế và hai phụ tá tới hang đá Giáng Sinh, nơi Ngôi Lời Nhập Thể, nằm trong cánh tay Đức Trinh Mẫu Maria, đang chờ đợi ngài. Thoạt tiên sự tầm thường nghèo nàn của nơi tạm trú đã khiến vị tư tế ngỡ ngàng và một chút bối rối. Nhưng Đức Trinh Mẫu đã khiêm tốn chào đón ngài và sự cao cả của Mẹ làm cho sự khó chịu của vị tư tế mau lẹ đổi ra sự tận tụy kính phục. Sự bình tĩnh, vẻ uy nghiêm cao quí nhất mực của Mẹ Maria làm cho tư tế xúc động kính trọng đối với nhân cách phi thường như thế mặc dù không biết nguyên do. Khi nhìn gương mặt Mẹ Maria và gương mặt Chúa Hài Đồng trong cánh tay Mẹ, vị tư tế được lòng sốt mến mẫn cảm lạ lùng. Lập tức ông tiến hành nhiệm vụ cắt bì Chúa Hài Đồng, Thiên Chúa thật và người thật. Cùng lúc đó Con Thiên Chúa, với lòng yêu mến khôn lường, đã dâng lên Thiên Chúa Cha hằng hữu ba hy lễ vô giá mà mỗi hy lễ đó đủ để cứu chuộc cả ngàn thế giới, nếu như có ngàn thế giới khác. Hy lễ thứ nhất là chính Ngôi Lời, vô tội và là Con Thiên Chúa thật, mặc lấy thân phận kẻ tội lỗi (Philip 2:7) bằng việc tự mình khuất phục đối với nghi lễ được đặt ra để làm thuốc chữa tội nguyên tổ, tuân theo các luật lệ không ràng buộc Chúa (2 Cor. 5:21). Hy lễ thứ hai là việc Ngôi Lời Thiên Chúa sẵn lòng chịu đau đớn do nghi lễ cắt bì, mà Chúa cảm thấy là con người đích thực và hoàn toàn. Hy lễ thứ ba là lòng yêu mến nồng nàn do đó Chúa Hài Đồng đổ máu ra vì loài người, tạ ân Thiên Chúa Cha đã cho Ngài bản tính nhân loại có thể chịu đau khổ để chúc tụng vinh danh Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa Cha chấp nhận hy lễ nguyện cầu này của CHÚA GIÊSU. Ngôi Lời nhập thể đã dâng ba trái đầu mùa này của máu thánh Chúa như lời hứa sẽ dâng hết đến giọt cuối cùng để hoàn thành Công Cuộc Cứu Chuộc, xóa sạch nợ cho con cháu Adong. Đức Hiền Mẫu Maria rất thánh nhìn thấy tất cả mọi việc làm và chuyển động bề trong của Con Một cực thánh. Mẹ Maria thấu triệt mầu nhiệm trong hành động của Chúa Hài Đồng; Mẹ kết hợp với Con và Chúa của Mẹ trong mọi việc Chúa đang làm và đau đớn Chúa chịu. Đúng với bản chất loài người của mình, Chúa Hài Đồng đã khóc chảy nước mắt như các trẻ sơ sinh khác. Mặc dầu lưỡi dao bằng toại thạch cùn nhụt làm cho thân xác Chúa Hài Đồng rất đau đớn, nước mắt Chúa trào ra do cái đau cảm giác không nhiều bằng bởi sự buồn phiền siêu nhiên vì trái tim chai đá của loài người. Đức Hiền Mẫu Maria cũng khóc, như một con chiên trong sạch, cất tiếng lên hợp với Con Chiên vôi tội. Trong tình yêu trắc ẩn hỗ tương Chúa Hài Đồng níu lấy Mẹ, trong khi Mẹ Maria âu yếm nhẹ nhàng ấp ủ Chúa vào ngực trinh khiết, thâu các thánh tích và máu thánh rơi xuống chiếc khăn. Trong khi đó vị tư tế hỏi Hai Đấng Cha Mẹ muốn đặt tên gì cho Chúa Hài Đồng. Vì luôn quan tâm đến danh dự của đức phu quân, Mẹ Maria đã xin thánh Giuse nói thánh danh Chúa ra. Thánh Giuse quay sang Mẹ Maria cùng một cách kính trọng như vậy để Mẹ hiểu rằng ngài nghĩ thánh danh Chúa phải được Mẹ nói ra trước tiên thì thích đáng hơn. Nhưng do thánh ý Chúa can thiệp, cả Mẹ Maria và thánh Giuse cùng nói lên một lượt: “GIÊSU là thánh danh của Con Trẻ.” Vị tư tế nói: “Cả cha và mẹ đều đồng tâm đồng trí, Tên mà hai người đặt cho Con Trẻ thật là vĩ đại.” Vị tư tế khắc thánh danh GIÊSU vào tấm bảng hoặc sổ ghi danh các trẻ chịu phép cắt bì. Đang khi viết thánh danh GIÊSU, vị tư tế xúc động khiến nước mắt tuôn rơi tầm tã. Bỡ ngỡ vì những gì cảm thấy mà không giải thích được, vị tư tế nói: “Tôi tin chắc Con Trẻ này sẽ là một Đại Tiên Tri của Chúa. Hãy cẩn thận nuôi nấng Con Trẻ, và cho tôi biết tôi có thể làm gì để làm nhẹ bớt nhu cầu của qúi vị.” Mẹ Maria và thánh Giuse đáp lời vị tư tế với lòng khiêm nhượng biết ơn và tiễn vị tư tế ra về sau khi đã tặng quà gồm nến và những vật khác. Mẹ Maria đắp vào các vết thương cắt bì những thứ thuốc thường dùng trong dịp này cho các trẻ sơ sinh. Hẳn là suốt thời gian Chúa Hài Đồng còn đau đớn và vết thương chưa lành, Mẹ Maria không rời Chúa một lúc nào. Tình yêu nồng nàn của Mẹ Maria vượt qua mọi hiểu biết của loài người vì tình yêu tự nhiên của Mẹ vốn vĩ đại hơn tình yêu của bất cứ bà mẹ nào trên trần gian; tình yêu siêu nhiên của Mẹ vượt hơn tình yêu của tất cả mọi thần thánh hợp lại. Lòng Mẹ Maria tôn kính thờ lạy Chúa không một thụ tạo nào khác có thể so sánh. Đây là những điều làm cho Ngôi Lời Nhập Thể hoan hỉ (Kn 8:31), mà Chúa ước ao và trông chờ nơi con cái loài người. Đây là phần thưởng, mà trái tim đầy yêu thương của Chúa rút từ sự thánh hóa vượt bực của Đức Trinh Mẫu Maria bù lại những đau buồn vì cách cư xử tệ bạc con cái loài người gây ra. LỜI MẸ MARIA Con của Mẹ, Mẹ ước muốn con suy xét cẩn thận đặc ân biết về sự săn sóc, quan tâm lo lắng Mẹ đã dành rất rộng rãi cho Con cực thánh hiền dịu nhất của Mẹ trong các mầu nhiệm vừa mới được kể. Đấng Tối Cao ban cho con ánh sáng đặc biệt hiểu biết các mầu nhiệm này không phải để con được thỏa mãn, nhưng để con bắt chước Mẹ trong mọi sự như một nữ tì trung thành, để con dâng lời cảm tạ về các kỳ công của Chúa theo cùng mức độ như con được làm cho hiểu biết đầy đủ hơn. Con yêu quí, con hãy suy nghĩ về sự đền đáp ít ỏi loài người đáp lại tình yêu của Chúa Con Mẹ, người ta vong ân bội nghĩa chừng nào cho dù Chúa vẫn trung thành. Con phải coi đó là nhiệm vụ, với hết khả năng hạn hẹp của con, dâng lên an ủi để đền bù sự xúc phạm nặng nề này. Con hãy tận lực tận sức yêu mến, tạ ân, phụng sự Chúa, để đền thay tất cả những kẻ không yêu mến, không tạ ân, không phụng sự Chúa. Vì thế con phải là một thiên thần sốt mến, nồng nàn và sẵn sàng trong mọi trường hợp. Con phải chết đi đối với mọi thứ ở đời, loại bỏ, chà đạp mọi khuynh hướng loài người và với đôi cánh tình yêu bay lên tới đỉnh cao yêu thương mà Thiên Chúa muốn cho con. Con biết rõ những hiệu quả ngọt ngào tích chứa trong việc ghi nhớ mọi điều Con chí thánh Mẹ đã làm. Con có thể lợi dụng ánh sáng được ban cho con để biết ơn, để có thể lo sợ vì sự nguy hiểm của tội quên ơn. Mẹ đặc biệt cho con biết các thánh trên trời, nhờ ơn Chúa cho hiểu các mầu nhiệm này, đều ngạc nhiên đối với chính các ngài vì đã không chú ý nhiều hơn tới những điều đó khi còn sống ở trần gian. Nếu các thánh còn có thể chịu được đau đớn, hẳn các ngài hết sức buồn phiền vì sự chậm trễ cẩu thả đã không đánh giá đúng mức những việc phải làm để được Ơn Cứu Độ, đã không bắt chước Chúa Kitô. Do ơn hiểu biết thần linh, toàn thể các thần thánh ngỡ ngàng vì sự ác độc của trái tim loài người đối với chính họ và chống lại Chúa Kitô Đấng cứu độ họ. Loài người không có lòng thương xót đối với các đau khổ của Chúa, cũng không có lòng xót thương đối với những đau khổ chính họ phải chịu. Khi những kẻ biết trước bị luận phạt, trong nỗi đắng cay bất tận, nhìn nhận sự vong ân bội bạc kinh khủng và sự hững hờ đối với các việc làm của Chúa Kitô, sự bối rối tuyệt vọng sẽ là hình phạt không chịu nổi, chỉ một điều đó thôi đã là hình phạt không thể tưởng tượng; vì khi đó họ sẽ thấy sự cao cả của Ơn Cứu Chuộc mà họ khinh thường (Tv 44:11). Con của Mẹ, hãy nghe Mẹ, lắng nghe các lời khuyên và học thuyết sự sống đời đời. Con hãy xua đuổi khỏi tâm trí con mọi hình ảnh và lòng quyến luyến đối với loài người, hướng mọi khả năng trái tim, linh hồn con về các mầu nhiệm và hồng ân Ơn Cứu Độ. Con hãy chỉ để tâm trí con bận bịu cân nhắc giá trị, tạ ân vì các mầu nhiệm và hồng ân Ơn Cứu Độ như thể chỉ một mình con hiện hữu, như thể những mầu nhiệm, các hồng ân đó chỉ được thực hiện cho một mình con (Gal 2:20). Như vậy con sẽ tìm thấy cuộc sống, cách sống, tiến hành như thế để con không lầm lẫn; nhưng con sẽ tìm thấy ở đó ánh sáng cho mắt con và bình an đích thực. |